Ðậu
đen Ðậu đen, Ðậu
trắng, Ðậu tía - Vigna unguiculata (L., ) Walp subsp, cylindrica
(L.) Verdc, thuộc họ Ðậu - Fabaceae. Mô
tả:
Cây thảo mọc hàng năm, thường đứng, có khi leo, toàn thân không
có lông. Lá kép gồm 3 lá chét, mọc so le, có lá kèm nhỏ; lá chét
giữa to và dài hơn các lá chét bên. Chùm hoa dài 20-30cm; hoa màu tím
nhạt. Quả đậu mọc thẳng đứng hay nghiêng, dài 7- 13cm, chứa
8-10 hạt xếp dọc trong quả, to hơn hạt Ðậu xanh, thường dài
5-6mm. Bộ
phận dùng:
Hạt của loại có vỏ đen, nhân trắng hoặc xanh (Ðậu đen xanh lòng)
- Semen Vignae Unguiculatae. Nơi
sống và thu hái: Phân loài này được xem như một nhóm
giống trồng (cv. group biflora) chỉ được trồng nhiều ở châu Phi
và châu Á. Ðậu đen cùng với nhiều loại đậu khác được
trồng, có màu sắc hoa, vỏ quả và hạt khác nhau nhưng đều cùng
thuộc phân loài trên. Thuộc nhóm cây Ðậu đen, có các loại Ðậu
khác có quả mọc đứng, chứ không thõng xuống như đậu dải. Có
một số giống trồng sau đây: 1. Ðậu cả,
Ðậu trắng có hạt xoan, màu trắng kem, có tễ đen, trồng nhiều
ở miền Bắc Việt Nam, dùng làm miến "Song thân". 2. Ðậu đen
có hoa tím, quả hình dải, có hạt nhỏ hình trụ, màu đen, trồng
ở Bắc Việt Nam, ở Campuchia, dùng nấu chè và nấu xôi Ðậu đen. 3. Ðậu đỏ,
Ðậu tía có cây thấp lùn, với hoa tím và hạt hình thận, màu đo
đỏ, ít được trồng hơn. Ðậu đen
được trồng phổ biến như Ðậu xanh. Trồng vào mùa hè, thời
gian sinh trưởng 80-90 ngày. Thành
phần hoá học: Hạt chứa 24,2% protid, 1,7% lipid; 53,3%
glucid; 2,8% tro; calcium 56mg%, phosphor 354mg%, sắt 6,1mg% caroten 0,06mg%,
vitamin B1 0,51mg%, vitamin B2 0,21mg%, vitamin PP 3mg%. Hàm lượng các acid
amin cần thiết trong đậu đen rất cao, tính theo g%: lysin 0,97%
metionin 0,31%, tryptophan 0,31; phenylalanin 1,1%; alanin 1,09, valin 0,97,
leucin 1,26, isoleucin 1,11, arginin 1,72; histidin 0,75. Hạt cũng chứa
stigmasterol nên có thể dùng thay được đậu tương. Tính
vị, tác dụng: Ðậu đen có vị ngọt nhạt, tính mát; có
tác dụng bổ huyết, bổ can thận; giải phong nhiệt, giải độc,
hạ khí, lợi tiểu. Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng trị phong
nhiệt, (phát sốt, sợ gió, nhức đầu hoặc trong ngực nóng khó
chịu), làm thuốc bổ khí, chữa can thận hư yếu, suy nhược,
thiếu máu. Liều dùng hàng ngày 20-40g hay hơn, luộc ăn, nấu chè
hay đồ. Là thuốc giải độc Ban miêu, Ba đậu. Dùng trong Ðông y
để chế thuốc như nấu với Hà thủ ô, làm giảm độc, lại có
tác dụng bổ thận thuỷ. Còn dùng chế Hàm đậu xị (Ðậu xị
muối) và Ðạm đậu xị (Ðậu xị nhạt). Ðậu đen có công năng
chữa bệnh nhiệt đối với người ở xứ nóng trong mùa viêm
nhiệt, nắng nóng, nên nhân dân ta thích dùng đậu này nấu chè ăn
thường trong mùa nóng. Tuệ Tĩnh,
trong Nam dược thần hiệu đã nêu lên một số phương thuốc trị
bệnh bằng đậu đen: - Chữa đau
bụng dữ dội: Dùng đậu đen 50g sao cháy sắc với rượu uống
hoặc sắc với nước rồi chế thêm rượu vào uống. - Chữa bỗng
dưng lưng sườn đau nhức: Dùng Ðậu đen 200g ngâm rượu uống. - Chữa liệt
dương: Dùng Ðậu đen sao già, đổ rượu vào ngâm uống. - Chữa sau
khi đẻ bị trúng gió nguy cấp, hoặc tay chân tê cứng, chóng mặt
sây sẩm: Dùng Ðậu đen 300g sao cháy đến bốc khói, đổ vào
500ml rượu, ngâm qua 1 ngày, đem uống và đắp chăn cho ra mồ hôi. - Chữa can hư,
mắt mờ, ra gió thì chảy nước mắt: Dùng Ðậu đen đồ lên,
chứa vào mật con bò đực, phơi gió cho khô, uống mỗi lần 27
hạt. - Chữa tiêu
khát (đái đường) do thận hư: Dùng Ðậu đen, Thiên hoa phấn, hai
vị bằng nhau, tán nhỏ làm viên uống với nước sắc Ðậu đen làm
thang. |
||