Thiết
cô tán Thiết
cô tán, Ngũ vị tử cuống dài, Hoàng long đằng - Schisandra
propinqua (Wall.) Hook.f. et Thoms., thuộc họ Ngũ vị - Schisandraceae. Mô
tả: Dây leo to, dài tới 2m; nhánh
non màu nâu. Lá có phiến thon hay bầu dục, dài 4-12cm, rộng 1-3cm,
không lông; gân phụ 7-9 cặp, cuống dài 1,5-2cm, mảnh. Hoa nhỏ,
đơn tính ở nách lá, màu vàng lục, cuống hoa ngắn, có lá bắc
nhỏ; bao hoa 6-9 mảnh, dài 4,5-9mm; nhị 6-9 nhóm thành đầu tròn.
Ở hoa cái có 10-30 lá noãn mọc rời trên một trục kéo dài. Quả
dài 5-7 mm, màu hồng đỏ. Ra
hoa tháng 8. Bộ
phận dùng: Thân dây, quả - Caulis
et Fructus Schisandrae Propinquae, thường gọi là Ngũ hương huyết
đằng. Nơi
sống và thu hái: Loài của Nam
Trung Quốc và Bắc Việt Nam, thường mọc ở độ cao 500-1500. Ở nước
ta, cây mọc ở rừng Fanxipan (Lào Cai). Thu hái vào mùa xuân, hạ,
thu, rửa sạch, phơi khô hay dùng tươi. Thành
phần hóa học: Thân, lá và
quả đều chứa tinh dầu. Tính
vị, tác dụng: Vị ngọt, cay,
tính ấm; có tác dụng hoạt huyết khư phong, thanh nhiệt giải độc,
tiêu thũng. Quả có tác dụng như Ngũ vị tử. Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
ở Thiểm Tây (Trung Quốc), cây được dùng trị kinh nguyệt không
đều, bạch đới, lao thương, đòn ngã tổn thương, mụn nhọt, sán
khí, phổi có mủ. Uống trong dùng rễ, thân 8-20g, sắc nước thường
thêm rượu vào uống, có thể ngâm rượu. Dùng ngoài lấy lá tuỳ
lượng, giã nát đắp. Ở Vân Nam người ta dùng chủ yếu là dây;
quả được dân gian dùng như Ngũ vị tử. |
||