|
Xoài
Xoài
- Mangifera indica L., thuộc họ Ðào lộn hột - Anacardiaceae.
Mô
tả: Cây gỗ lớn, cao 10-20m, có
tán rậm. Lá đơn, nguyên, mọc so le, phiến lá hình thuôn mũi mác,
nhẵn, thơm. Hoa họp thành chùm kép ở ngọn cành. Hoa nhỏ, màu vàng,
có 5 lá đài nhỏ, có lông ở mặt ngoài, 5 cánh hoa có tuyến
mật, 5 nhị nhưng chỉ có 1-2 nhị sinh sản. Bầu trên, thường
chỉ có một lá noãn chứa 1 noãn. Quả hạch chín màu vàng, thịt
vàng, ngọt, thơm, nhân có xơ. Hạt rất to.
Bộ
phận dùng: Quả, hạch của quả, lá, vỏ thân - Fructus, Nux, Folium et
Cortex Mangiferae Indicae.
Nơi
sống và thu hái: Gốc ở Ấn
Độ, được trồng nhiều ở các xứ nhiệt đới. Ở nước ta, Xoài
được trồng ở nhiều nơi. Có nhiều thứ khác nhau như Xoài tượng,
Xoài cát, Xoài cơm, Xoài thanh ca, v.v.. có thể thu hái các bộ
phận của cây quanh năm, dùng tươi hay phơi khô.
Thành
phần hóa học: Quả chứa
nhiều caroten và vitamin B1, B2 và C. Hạch quả
chứa nhiều tinh bột, dầu và tanin. Lá chứa tanin và một hợp
nhất flavonoid là mangiferin. Vỏ thân chứa 3% tanin và mangiferin.
Tính
vị, tác dụng: Quả, vỏ, lá có vị chua, ngọt, tính mát; hạch quả có
vị chua, chát, tính bình. Quả có tác dụng thanh nhiệt tiêu trệ,
ích vị, chỉ thổ, giải khát, lợi niệu. Hạt quả có tác dụng
chỉ khái, kiện vị. Lá có tác dụng chỉ dương, hành khí sơ
trệ, khu sa tích, lợi tiểu và có thể kháng nham. Vỏ thân có tác
dụng thu liễm, sát trùng. Nhựa từ vỏ cây rỉ ra không mùi, có ví
chát, đắng, hơi cay cũng có tác dụng như vỏ.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Quả Xoài và hạch quả dùng trị ho, tiêu hóa không bình thường,
sán khí. Thịt quả dùng trị bệnh hoại huyết và loạn óc. Hạch
quả còn dùng trị giun, kiết lỵ và ỉa chảy. Vỏ quả dùng trị
kiết lỵ.
Lá
dùng trị các bệnh phần trên đường hô hấp như ho, viêm phế
quản mạn tính hay cấp tính, thủy thũng và dùng ngoài trị viêm
da, ngứa ngáy ngoài da.
Vỏ
thân thường được dùng trị ho, đau sưng họng và đau răng.
Nhựa từ vỏ dùng trị kiết lỵ, ỉa chảy và bệnh ngoài da, cũng
dùng trị bạch đới, kinh nguyệt quá nhiều.
Cách
dùng: Ta thường trồng Xoài để lấy quả ăn. Vỏ thân dùng
chữa đau răng. Lấy 1 miếng vỏ bằng bàn tay, cạo vỏ ngoài rồi
thái mỏng. Nếu dùng vỏ tươi thì giã nhỏ, vắt lấy nước, thêm
tí muối để ngậm rồi nhổ nước, mỗi ngày 4-5 lần. Nếu dùng
vỏ khô thì sắc lấy nước: đổ 2 bát nước đun sôi, giữ nước
sôi kỹ trong nửa giờ, gạn lấy nước sắc, thêm vài hạt muối
rồi ngậm. Mỗi lần ngậm chừng một chén con. Ngậm trong 10 phút,
thỉnh thoảng súc sang hai bên má rồi nhổ đi. Ngậm 3-4 lần trong
ngày, liên tiếp vài ba ngày.
Nhựa
cây tươi đem ngâm trong nước Chanh dùng trị các thứ ghẻ lở.
Hạt phơi khô, tán bột, dùng mỗi lần 1,5g trị giun hoặc uống
trị kiết lỵ, ỉa chảy. Lá thường dùng nấu nước xông trị các
bệnh trong họng.
|
|