|
Thục
quỳ
Thục
quỳ - Althaea rosea (L.) Gav (Alcea rosea L.) thuộc họ Bông
- Malvaceae.
Mô tả: Cây sống lưu niên, thân thẳng, có lông
cao 2-3m. Lá mọc so le, dạng tim, chia thùy, rộng tới 30cm. Hoa có
cuống ngắn, ở ngọn thân, to, rộng 10-12cm, trắng, hồng, đỏ, thường
xếp từng đôi; lá đài 5-8 có lông trắng; đài cao 2-3cm, ống
nhị ngắn, bầu 25-45 ở 1 noãn. Quả nằm trong đài, các phần
quả không mở.
Ra
hoa tháng 7-9.
Bộ phận dùng: Hoa, hạt, rễ, lá - Flos,
Semen, Radix et Folium Althaeae Roseae.
Nơi sống và thu hái: Loài của Trung
Quốc, được nhập trồng làm cảnh ở nhiều nơi ở vùng thấp và
vùng cao. Có nhiều giống trồng với màu hoa khác nhau. Thu hái hoa vào
mùa hè, phơi khô trong râm, dễ dùng. Hạt thu hái vào mùa hè, phơi
khô. Rễ thu hái vào mùa thu đông, rửa sạch, phơi khô.
Thành phần hóa học: Hạt chứa 11,9% dầu khô.
Hoa chứa flavonoid là cyanidin.
Tính vị, tác dụng: Hoa có vị ngọt, mặn, tính
hàn; có tác dụng lợi niệu nhuận táo, hoạt huyết điều kinh, tán
ung thũng, giải độc. Hạt có vị ngọt, tính hàn; có tác dụng
lợi niệu thông lãm, thông đạt tiện; còn có tác dụng hạ
nhiệt. Rễ có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt giải
độc, thu liễm chỉ lỵ, bài nùng, lợi niệu.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Hoa được dùng trị đại tiểu tiện không thông suốt, kinh
nguyệt không đều, bạch đới, ong và bò cạp đốt, bỏng lửa.
Liều dùng hoa 12g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài tuỳ lượng, tán
bột rắc, đắp.
Hạt
dùng trị Thủy thũng, đại tiểu tiện không thông suốt, sỏi
niệu đạo. Rễ dùng trị dao chém, bỏng, lỵ; còn dùng chữa viêm
ruột, cảm nhiễm niệu đạo, đái đỏ, viêm cổ tử cung, bạch
đới. Ở Ấn Độ, hạt được dùng trị sốt, rễ dùng trị lỵ
và hoa dùng trị thấp khớp.
Hoa
lá dùng ngoài trị ung thũng sang dương, bỏng và cháy.
|
|