|
Thanh
thất
Thanh
thất, Xú xuân, Cây bút, Càng hom - Ailanthus triphysa (Dennst.)
Alston (A. malabarica DC.,
A. fauveliana Pierre), thuộc họ Thanh thất - Simaroubaceae.
Mô
tả: Cây gỗ lớn, cao tới
20m. Lá kép lông chim lẻ, dài 40-60cm, có khi dài tới 1m, thường
tập trung ở đầu cành. Lá chét lệch, hơi cong lưỡi liềm, có
cuống; mặt trên không lông, có lông hoe hay vàng ở mặt dưới, mép
nguyên hơi lượn sóng; gốc phiến lá không cân đối, đầu nhọn.
Lá già khi rụng xuống có màu đỏ. Chuỳ hoa mọc ở nách lá; dài
25-45cm, hoa xếp thành xim co trên các nhánh. Quả hình trái xoan, có
cánh, dài 5-8cm, chứa một hạt tròn hơi dẹt.
Ra
hoa tháng 5-6, có quả tháng 7-9.
Bộ
phận dùng: Vỏ thân, lá, quả
- Cortex, Folium et Fructus Ailanthi Triphysae.
Nơi
sống và thu hái: Cây của vùng
Ấn Độ và các nước Ðông Dương, thường mọc hoang trong rừng
ở độ cao 1000m, các tỉnh Vĩnh Phú, Thanh Hoá, Nghệ An, Khánh Hoà,
Ninh Thuận, ...tới Gia Lai. Cũng được trồng lấy gỗ dùng trong xây
dựng, vỏ và nhựa dùng làm thuốc nhuộm đen.
Thành
phần hóa học: Vỏ chứa một
thứ nhựa màu đỏ hay xám đen, khi đốt lên, nó toả mùi thơm đặc
biệt, dễ chịu; còn có quassin, acid ailantic và một chất đắng không
phải glucosid là malanthin.
Tính
vị, tác dụng: Vỏ có vị đắng,
mùi thơm, tính ấm, không độc; có tác dụng thanh nhiệt lợi
thấp, thu liễm chỉ lỵ, sát trùng.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Vỏ dùng chữa bệnh lỵ, bạch đới. Ở Ấn Độ nhựa dùng trị
lỵ; dịch vỏ tươi dùng trị lỵ. Thường dùng 30g phối hợp
với sữa sủi bọt 30g.
Nhân
dân còn sử dụng vỏ và lá cây sắc uống để chữa sốt, hoặc
cho sản phụ uống để bổ máu, tiêu cơm. Cũng dùng ngâm rượu
uống làm thuốc bổ. Quả cây được sử dụng sắc uống chữa ho
và điều kinh.
Đơn
thuốc:
1.
Lỵ ra máu, đau bụng chói hay đại tiện ra máu: Vỏ (thân hoặc
rễ) Thanh thất phơi khô, tán nhỏ, uống mỗi lần 6-12g.
2.
Chữa bạch đới: Vỏ cây Thanh thất tán bột với Hoạt thạch, lượng
bằng nhau, uống 10-20g chia làm 2-3 lần trong ngày.
Ghi
chú: Mầm cây Thanh thất ăn
được, nhưng nếu ăn nhiều sẽ bị động phong, nung nấu tạng
phủ sinh hôn mê.
|
|