|
Sa
môn
Sa
môn, Cây vẩy ốc - Salomonia
cantoniensis Lour., thuộc họ Viễn chí - Polygalaceae.
Mô tả:
Cỏ cao 5-20cm, nhẵn. Thân hình sợi, có cánh, nhất là ở ngọn,
nhiều khi phân nhánh. Lá hình trái xoan hay hình tam giác, ít khi hình
tim ở gốc, có mũi nhọn ở ngọn, nhẵn. Hoa mọc thành bông hơi
thưa, 5 lá đài hình trái xoan nhọn, có răng ở mép; 3 cánh hoa, cánh
thứ 3 hình mũ ở ngọn, tù, với 2 tai nhỏ hình tam giác tù ở
gốc mũ; 4 nhị hàn liền thành bẹ bởi các chỉ nhị, bầu hình
tam giác ngược, 2 ô. Quả nang có mạng lõm, hai cánh có răng; hạt
đen, to 1,5mm.
Bộ phận dùng:
Toàn cây - Herba Salomoniae
Cantoniensis.
Nơi sống và thu hái:
Loài phân bố ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam. Mọc ở nhiều nơi
thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Hà Bắc, Vĩnh Phú, Bắc Thái, Lạng Sơn,
Lào Cai cho tới Lâm Đồng.
Thành phần hoá học:
Rễ có mùi metyl salicylat.
Tính vị, tác dụng:
Vị hơi cay, tính ấm, có hương thơm, hơi có độc; có tác dụng
thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng, kháng khuẩn chống đau, khử
ế.
Công dụng:
Thường được dùng chữa sốt trẻ em, chữa đau mắt (Viện Dược
liệu).
Ở
Trung Quốc dùng trị rắn cắn, dao chém, vô danh thũng độc, đau răng
và mắt sinh màng. Ở Ấn Độ, cây được giã ra và đắp vào
miệng trẻ em bị bệnh spru.
Đơn thuốc:
1.
Mắt sinh màng trắng: Sa môn nấu nước và rửa.
2.
Đau răng: Nấu nước Sa môn dùng ngậm.
3.
Mụn nhọt độc và rắn cắn: Giã cây tươi đắp.
|
|