|
Ðay
dại
Ðay dại,
Bố dại, Bố rừng - Corchorus estuans L., thuộc họ Ðay - Tiliaceae.
Mô
tả:
Cây thảo sống lâu năm, phân cành nhánh nhiều; thân đo đỏ; nhánh
có hàng lông. Lá hình bầu dục, tròn ở gốc, nhọn ở đỉnh; mép
lá khía răng ngắn, nhọn, đôi khi kéo dài thành lông dài, đều
nhau; thường ở phía gốc lá tận cùng bằng hai cái lông rất dài;
3-5 gân gốc; phiến lá nhẵn cả hai mặt; cuống mảnh; lá kèm dài,
mảnh, nhọn đầu và khá dai. Hoa nhỏ bé, xếp hai cái trên một
cuống ngắn ở nách lá, màu vàng. Quả nang hình trụ, áp vào thân,
mở thành 3-4 mảnh; hạt rất nhiều, nhẵn.
Ra hoa vào mùa
hè, có quả vào mùa đông.
Bộ
phận dùng:
Lá - Folium Corchori.
Nơi
sống và thu hái: Loài phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc,
Việt Nam, Lào, Campuchia, Philippin, Inđônêxia, châu Ðại Dương và các
vùng nhiệt đới châu phi. Ở nước ta, Ðay dại thường mọc phổ
biến ở các bãi hoang, ven các đường đi, tới độ cao 1.000m.
Thành
phần hoá học: Người ta đã biết trong cây có: nước
72%, Protid 4,2%, lipid 1,35%, cellulose 3,3%, dẫn xuất không protein
17,2%, khoáng toàn phần 2%.
Tính
vị, tác dụng: Lá cây có vị đắng, tính mát, có tác
dụng giải nóng, giải cảm nắng. Hạt lợi tiêu hoá.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Nhân dân thường hái lá
về làm thức ăn cho lợn. Vỏ cây cho một loại sợi dùng để
dệt các mặt hàng thô hoặc làm giấy. Người ta thường lấy cả
cây giã nát để tắm cho trẻ em bị bệnh sởi làm cho sởi chóng
mọc và làm thuốc đòn ngã. Lá Ðay dại trộn với đường vàng
giã nát đắp lên nhọt để rút mủ. Ngọn và lá non, vỏ quả, thái
nhỏ thường dùng nấu canh ăn cho mát, do nó có tác dụng lợi
tiểu. Dân gian cũng dùng toàn cây sắc uống trị phù thũng.
Ở Ấn Độ,
hạt được dùng trong bệnh viêm phổi.
|
|