|
Ngải
đắng
Ngải
đắng, Ngải áp xanh - Artemisia
absinthium L., thuộc họ Cúc - Asteraceae.
Mô tả:
Cây thảo cao 0,4-1m, sống dai, màu trăng trắng, phân nhiều nhánh,
rất thơm. Lá dạng trứng, các lá phía dưới hai hay ba lần chia lông
chim, có cuống và có lông mềm, màu lục ở trên, màu trắng
trắng ở dưới. Hoa màu vàng xếp thành đầu nhỏ hình cầu, các
hoa đầu này lại xếp thành chùm bên trái ra, tạo thành dạng
chuỳ có lá, đế hoa có lông, lá bắc của bao chung màu lục và
dạng vẩy nhiều hay ít; tất cả hoa đều hình ống. Quả bế,
rất nhỏ, nhẵn, không có mào lông.
Ra
hoa tháng 1.
Bộ phận dùng:
Lá và phần cây trên mặt đất - Folium et Herba Artemisiae Absinthii.
Nơi sống và thu hái:
Phổ biến ở châu Âu, một phần châu Á và Bắc Phi trên đất khô
và ở núi. Nước ta nhập trồng ở Sapa, tỉnh Lào Cai.
Thành
phần hóa học: Lá và ngọn cây mang hoa chứa tinh dầu, absinthole,
những chất đắng trong đó có glucosid absinthin, artemisitin và các
vết C và B6.
Tính
vị và tác dụng: Vị đắng, mùi thơm, tính ấm; có tác dụng
bổ, lợi tiêu hóa, hạ nhiệt, làm dịu đau, chống ho, trừ giun và
điều kinh. Hoa có tác dụng trị giun và bổ.
Công dụng:
Được dùng chữa chứng đầy hơi và đau dạ dày, đau gan, huyết
áp cao, ho, sốt, sốt rét gián cách; thường dùng làm thuốc trị
giun sán. Dùng dưới dạng thuốc hãm, cồn chiết, rượu thuốc, còn
dùng chiết làm nước uống, làm thơm rượu vang và những thức
uống khác. Không dùng cho phụ nữ có thai.
Ở
Tuynidi, người ta còn dùng quả và lá phơi khô rồi quấn làm
thuốc hút, hoặc sắc uống làm thuốc trị sốt và trị cúm.
|
|