|
Nghệ
rễ vàng
Nghệ
rễ vàng, Nghệ cà ri - Curcuma
xanthorrhiza Roxb., thuộc họ Gừng - Zingiberaceae.
Mô tả:
Cây thảo sống nhiều năm có thân rễ màu cam đậm. Phiến lá thường
có bớt tía. Cụm hoa cao 40cm, có 2 bẹ; lá bắc xanh, chóp tía, các
lá bắc dính nhau vào 1/2 dưới, cao 5cm; lá đài trong trong; cánh hoa
đỏ, cánh hoa trên có mũi; nhị lép vàng;, môi vàng nghệ, chẻ
hai; bao phấn trắng; bầu có lông, 2 vòi nhuỵ lép.
Bộ phận dùng:
Thân rễ - Rhizoma Curcumae
Xanthorrhizae.
Nơi sống và thu hái:
Loài phân bố ở châu Âu và nhiều nước châu Á như Nhật Bản,
Triều Tiên, Ấn Độ, Inđônêxia. Ở nước ta có trồng ở tỉnh
Cần Thơ.
Thành phần hoá học:
Củ chứa tinh bột (40-60%) và tinh dầu (6-15%) mà thành phần chính
là các sesquiterpen (zingiberen, curcumen, turmeren). Còn có p-tolyl methyl
carbinol làm tăng hoạt tính của tinh dầu; các chất màu là các
curcuminoid trong đó có curcumin.
Tính vị, tác dụng:
Vị đắng, cay, tính ấm; có tác dụng lợi mật (do tinh dầu), thông
mật (do curcumin), làm giảm cholesterol (do tinh dầu), chống co thắt
và diệt vi khuẩn.
Công dụng:
Nghệ rễ vàng được dùng trị thiểu năng gan và sung huyết gan vàng
da, viêm túi mật, viêm ống mật, bí tiểu tiện, sỏi mật, tăng
cholesterol- huyết, lên men ruột, bệnh đường niệu và viêm mô
tế bào.
Cách dùng:
Có thể dùng dưới dạng thuốc hãm: 20g trong 1 lít nước, 200-300ml
mỗi ngày; hoặc cao lỏng: 20 giọt trước các bữa ăn; hoặc bột
thân rễ làm viên 0,20-0,30g mỗi ngày
Ghi chú:
Nghệ rễ vàng là gia vị rất quen dùng ở Ấn Độ và Inđônêxia
(Java). Người ta gọi là cà ri, những hỗn hợp nhiều chất thơm,
thay đổi theo vùng xuất xứ; như ở Ấn Độ, trong cà ri có: bột
Hạt mùi 60 phần, Nghệ rễ vàng 15 phần, hạt Tiêu 10 phần, Ớt
15 phần.
|
|