|
Hồng
hoa
Hồng
hoa, Rum - Carthamus tinctorius L.,
thuộc họ Cúc - Asteraceae.
Mô tả: Cây nhỏ, sống hàng năm, cao 0,6 - 1m hay hơn.
Thân đứng, nhẵn, có vạch dọc, phân cành ở ngọn. Lá mọc so
le, gần như không cuống, gốc tròn ôm lấy thân. Phiến hình bầu
dục hay hình trứng dài 4-9cm, rộng 1-3cm, chóp nhọn sắc, mép có răng
cưa nhọn không đều, mặt lá nhẵn, màu xanh lục sẫm, gân chính
giữa lồi cao. Cụm hoa đầu ở ngọn thân; bao chung gồm nhiều vòng
lá bắc có hình dạng và kích thước khác nhau, có gai ở mép hay
ở chóp, hoa nhỏ, màu đỏ cam, đẹp, đính trên đế hoa dẹt.
Quả bế, hình trứng, có 4 vạch lồi.
Mùa
hoa tháng 5-7; quả tháng 7-9.
Bộ phận dùng: Hoa - Flos carthami, thường gọi là Hồng hoa. Hạt và dầu hạt
cũng được sử dụng.
Nơi sống và thu hái: Cây có nguồn gốc
ở Ả Rập, nay được trồng nhiều ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật
Bản và ở nhiều nước khác trên thế giới. Ở nước ta, trước
đây có trồng nhiều ở Hà Giang, sau đó ít thấy trồng, đến năm
1970, ta lại nhập giống đem trồng ở nhiều nơi, từ Hà Nội cho
tới Đà Lạt. Thường trồng bằng hạt vào mùa xuân. Thu hái hoa
đang nở có màu hồng đỏ, phơi ở nắng nhẹ, trong râm cho khô.
Để tiện bảo quản. sau khi hái, lấy cánh hoa giã thành bánh rồi
phơi khô.
Thành phần hóa học: Trong hoa có sắc tố màu
đỏ là carthamin (0,3-0,6%) không tan trong nước và một số sắc
tố màu vàng tan trong nước. Còn có isocarthamin sẽ chuyển dần thành
carthami, luteolin 7-glucosid và 3 - rhamnoglucosid của kaempferol. Hạt
chứa 20-30% dầu, 12-15% protein. Dầu này giàu về các glycerid của các
acid béo không trung hoà, có hàm lượng đến 90%.
Tính vị, tác dụng: Hồng hoa có vị cay, tính
ấm; có tác dụng phá ứ huyết, thông kinh, sinh huyết và hoạt
huyết. Còn có tác dụng tẩy, làm toát mồ hôi, kích thích và làm
dịu đau. Hạt có tác dụng xổ, lợi tiểu, làm long đờm và điều
kinh.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Hồng hoa được dùng chữa bế kinh, đau kinh, ứ huyết sau khi đẻ,
khí hư, viêm tử cung, viêm buồng trứng. Còn dùng chữa viêm
phổi, viêm dạ dày, tổn thương do bị ngã hay bị đánh ứ huyết
sưng đau. Liều dùng 3-8g hoa sắc uống hoặc ngâm rượu uống. Thường
dùng phối hợp với các vị thuốc khác.
Ở
Ấn Độ, Hồng hoa được dùng làm thuốc an thần và điều kinh; cũng
dùng để chữa sởi, vàng da. Dầu hạt được dùng chữa thấp
khớp và chữa các vết loét. Hạt dùng xổ và dùng trị thấp
khớp.
Hồng
hoa, từ thời Tuệ Tĩnh đã được dùng nhuộm tơ lụa cho có màu
đỏ và dùng làm thuốc. Ngày nay, người ta cũng trồng Hồng hoa làm
hàng rào, lấy hoa để nhuộm, làm thuốc và còn dùng hạt để
lấy dầu. Dầu này sau khi tinh chế, dùng để ăn như dầu hướng
dương, còn dùng để thắp sáng, nấu xà phòng, chế sơn, mỹ
phẩm... Khô dầu Hồng hoa chứa 20-60% protein dùng làm thức ăn chăn
nuôi. Hạt không bóc vỏ, ép dầu xong dùng làm phân bón.
Đơn thuốc:
1.
Chữa sau khi đẻ máu xấu không ra, đau bụng, bị ngất mê man,
phụ nữ kinh bế lâu ngày, huyết tích thành hòn: Hồng hoa, Tô
mộc (gỗ vang), Nghệ đen đều 8g, sắc rồi chế thêm một chén rượu
vào uống (Lê Trần Đức).
2.
Trục thai chết trong bụng ra: Hồng hoa đun với rượu mà uống;
hoặc dùng Hồng hoa, rễ Gấc, gỗ Vang, Cỏ nụ áo, vỏ cây Vông
đồng, lá Đào, Cỏ xước, sắc rồi chế thêm đồng tiện vào mà
uống (Tài nguyên thuốc nam Việt Nam)
3.
Tan máu ứ, thông kinh: Hồng hoa 1-8g, sắc hoặc ngâm rượu uống (Tài
nguyên thuốc nam Việt Nam)
4.
Phòng và chống bệnh ban sởi: Hạt Hồng hoa 3-5 hạt nhai nuốt, chiêu
nước (Tài nguyên thuốc nam Việt Nam).
5.
Chữa đơn sưng chạy chỗ này sang chỗ khác: Mầm cây Hồng hoa giã
vắt lấy nước cốt uống, bã thì đắp. (Lê Trần Đức)
|
|