|
Gấc
Gấc
- Momordica cochinchinensis (Lour.) Spreng., thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae.
Mô tả: Cây sống
nhiều năm, leo cao nhờ tua cuốn ở nách lá. Lá mọc so le, phiến
xẻ 3-5 thuỳ sâu. Hoa mọc riêng rẽ ở nách lá. Hoa đực có lá
bắc to, tràng hoa màu vàng. Hoa cái có lá bắc nhỏ. Quả to, có
nhiều gai, khi chín có màu gạch đến đỏ thẫm; hạt dẹt cứng,
màu đen. Người ta còn dựa vào độ sai của quả (nhiều hay ít) kích
thước của quả (to hay nhỏ) gai quả (mau hay thưa) màu sắc của
ruột quả (đỏ hay vàng gạch), đầu béo (ít hay nhiều), số lượng
hạt (nhiều hay ít) để chia ra Gấc tẻ (hay gấc Giun) và Gấc
nếp (hay Gấc gạch).
Mùa
hoa tháng 6-8, mùa quả tháng 8-11.
Bộ phận dùng: Hạt - Semen
Momordicae, thường gọi là Mộc miết tử. Dầu Gấc ép từ màng
đỏ bao xung quanh hạt đã phơi hay sấy khô cũng thường được dùng.
Nơi sống và thu hái: Cây
của vùng Ấn Độ - Malaixia, thường được trồng nhiều để
lấy quả đồ xôi. Cây ưa đất tơi xốp, cao ráo, nhiều mùn, ẩm
mát. Trồng bằng hạt hoặc bằngđoạn dây bánh tẻ vào tháng 2-3
âm lịch. Thu hoạch quả vào tháng 9-12. Bóc lấy lớp màng hạt để
chế dầu, còn hạt đem phơi hay sấy khô. Rễ có thể thu hái quanh
năm.
Thành phần hoá học: Nhân
hạt Gấc có khoảng 6% nước, 8,9% chất vô cơ 55,3% acid béo 16,5%
protein, 2,9% đường. 1,8% tanin, 2,8% cellulose và một số enzym. Hạt
gấc chứa acid momordic, gypsogenin, acid oleanolic, acid a-
elacostearic, còn có acid amin, alcol. Dầu gấc chứa acid oleic 44,4%,
acid linoleic 14,7%, acid stearic 7,89%, acid palmatic 33,8%. Màng hạt Gấc
chứa một chất dầu màu đỏ mà thành phần chủ yếu là b-caroten
và lycopen là những tiền sinh tố A khi vào cơ thể sẽ biến thành
vitamin A, lượng b-caroten
của Gấc cao gấp đôi của Cà rốt. Thân củ chứa chondrillasterol,
cucurbitadienol, 1 glycoprotein và 2 glycosid có tác dụng hạ huyết áp.
Rễ chứa momordin một saponin triterpenoid; các chiết xuất cồn có
sterol, bessisterol tương đương với spinasterol.
Tính vị, tác dụng:
Hạt gấc có vị đắng, hơi ngọt, tính ấm, có độc, có tác
dụng tiêu tích lợi trường, tiêu thũng, sinh cơ; dùng ngoài có tác
dụng tiêu sưng. Rễ Gấc có vị hơi đắng, mùi thơm, tính mát, có
tác dụng trừ thấp nhiệt, hoạt huyết, lợi tiểu. Dầu Gấc có
vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ tỳ vị, làm sáng mắt.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ta thường dùng cùi đỏ của Gấc trộn lẫn với gạo
nếp đồ thành xôi Gấc, đó là một món ăn cổ truyền rất bổ,
rất ngon. Dầu Gấc dùng làm thuốc bồi dưỡng cơ thể (cho trẻ
em và phụ nữ đang có thai hoặc cho con bú), chữa bệnh khô mắt,
dùng bôi lên các vết thương, vết loét, vết bỏng và các ổ loét
dãn tĩnh mạch đỡ được mùi hôi, chóng lên da non và liền sẹo.
Còn dùng chữa các bệnh viêm hậu môn và trực tràng có loét, cao
huyết áp, rối loạn thần kinh. Nhân hạt Gấc thường được dùng
trị mụn nhọt sưng tấy, tràng nhạc, lở loét, sưng vú, tắc tia
sữa, chấn thương ứ huyết. Rễ Gấc thường được dùng để
chữa tê thấp, đau nhức gân xương sưng chân tay, ngủ hay giật
tay chân và đau lưng.
Cách
dùng: Dầu gấc dùng uống mỗi ngày 10-20 giọt chia làm 2 lần. Có
thể phối hợp với bột than hạt Dành dành làm thuốc chữa các
loại bỏng (có thể chế thành mỡ dầu Gấc). Hạt dùng mài với
nước, với giấm hoặc giã nát trộn với rượu hoặc giấm để
bôi. Rễ Gấc sao vàng tán nhỏ, sắc hoặc ngâm rượu uống; ngày
dùng 6-12g dùng riêng hoặc phối hợp với Dây đau xương, rễ Bưởi
bung, củ Cốt khí, Dây chìa vôi tía mỗi vị 20g thái nhỏ, sao vàng,
sắc nước uống hàng ngày, mỗi ngày 1 thang chia uống 3 lần.
Hoặc dùng rễ Gấc 12-20g phối hợp với Dây đau xương, rễ Bưởi
bung, rễ Ngưu tất, mỗi vị 12g cùng sắc uống.
|
|