|
Cỏ
cứt lợn
Cỏ
cứt lợn, Cỏ hôi, Cây bù xích - Ageratum conyzoides L., thuộc
họ Cúc - Asteraceae.
Mô
tả: Cây thảo mọc hằng năm,
cao chừng 25-50cm. Lá mọc đối, hình trứng, mép có răng cưa tròn.
Toàn thân và lá đều có lông. Hoa nhỏ, màu tím hay xanh trắng,
xếp thành đầu, các đầu này lại tập hợp thành ngù. Quả bế
có ba sống dọc, màu đen.
Bộ
phận dùng: Phần cây trên mặt đất - Herba Agerati.
Nơi
sống và thu hái: Cây của
nhiệt đới châu Mỹ, phát tán tự nhiên vào nước ta, mọc hoang
dại khắp nơi. Thu hái toàn cây bỏ rễ, rửa sạch, dùng tươi hay
phơi khô, nhưng thường hay dùng tươi.
Thành
phần hoá học: Toàn cây chứa tinh dầu (0,16% so với dược liệu
khô). Lá và hoa chứa 0,02% tinh dầu với mùi nồng khó chịu, tinh
dầu này chứa phenol (eugenol) 5% một phenol ester mùi dễ chịu. Thành
phần chủ yếu của tinh dầu là g-cadinen,
caryo-phyllen, ageratocromen (1), demethoxy-ageratocromen và một số thành
phần khác. Lá chứa stigmast 7-en-3-02, quercetin, kaempferol, acid
fumaric, acid cafeic. Cây cứt lợn ở Việt Nam chứa 0,7-2% tinh dầu,
carotenoid, ít phytosterol, tanin, đường khử, saponin, hợp chất
uronic. Hàm lượng saponin thô trong thân và lá (tính theo dược
liệu khô kiệt) là 4,7%. Tinh dầu cây cứt lợn hơi sánh đặc, màu
vàng nhạt đến vàng nghệ, mùi thơm dễ chịu có thành phần chủ
yếu là ageratocromen và demethoxyageratocromen.
Tính
vị, tác dụng: Cây cứt lợn có vị hơi đắng, tính mát, có tác dụng
thanh nhiệt, giải độc, tiêu sưng và cầm máu. Cành lá vò ra có mùi
hôi gây nôn.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường được chỉ định dùng làm thuốc chống viêm, chống phù
nề, chống dị ứng trong các trường hợp: 1. Sổ mũi, viêm xoang mũi,
dị ứng cấp và mạn; 2. Chảy máu ngoài do chấn thương, bị thương
sưng đau; 3. Mụn nhọt, ngứa lở, eczema. Liều dùng 15-30g cây khô
sắc nước uống, hoặc dùng cây tươi giã lấy nước nhỏ. Cũng dùng
cây tươi giã đắp vết thương chảy máu, mụn nhọt, eczema, hoặc
nấu nước tắm chữa ghẻ, chốc đầu của trẻ em.
Người
ta còn dùng Cỏ cứt lợn chữa rong huyết sau khi sinh đẻ, dùng
phối hợp với bồ kết nấu nước gội đầu cho thơm và sạch
gầu, trơn tóc. Ở Ấn Ðộ, người ta dùng nước ép rễ cây để
chữa bệnh Sỏi thận. Lá làm thuốc săn da, dùng chữa các vết đứt,
vết thương và dùng đắp chữa sốt rét.
Ðơn
thuốc:
1.
Chữa phụ nữ rong kinh sau khi đẻ: dùng 30-50g lá hoa Cỏ cứt lợn
tươi giã nhỏ, chế thêm nước, vắt lấy nước cốt uống.
2.
Chữa viêm xoang dị ứng hay viêm tai: cũng giã lá hoa tươi vắt
lấy nước, tẩm bông bôi vào mũi bên đau hoặc ngoáy trong lỗ
tai. Cũng có thể dùng cành lá khô sắc nước xông mũi và uống.
Nhiều
bệnh viện đã sử dụng các chế phẩm của Cỏ cứt lợn để điều
trị các chứng viêm xoang mũi mạn tính và dị ứng, có kết quả
tốt, không gây tác dụng phụ gì đối với cơ thể người bệnh.
|
|