|
Chiêu
liêu nghệ
Chiêu
liêu nghệ, Chiêu liêu ổi, Chiêu liêu đen, Bần nâu - Terminalia
nigrovenulosa Pierre ex Laness (T.triptera Stapf), thuộc họ Bàng
- Combretaceae.
Mô
tả:
Cây gỗ lớn, rụng lá một phần, cao 10-30m, đường kính 0,5-1m, thường
phân nhánh từ độ cao 6-10m, tạo thành nhiều thân. Vỏ thân màu xám
nhạt có nhiều khoang trắng và đen. Lá mọc đối, hình trái xoan
hay hình mác, gần như bầu dục, thon hẹp hai đầu, đai hơi bóng,
hơi có chấm trắng ở mặt trên, dài 8-10cm, rộng 5-6cm, có hai
tuyến hình chén ở mép lá và cách gốc cỡ 1cm. Hoa nhỏ, trắng thành
chùy kép, rậm hoa, dài 6cm, phủ lông hung. Quả dài tới 25mm, có 3
cánh rộng 7-8mm, màu xanh tươi, khi khô màu đen, có một hột dài
4-7mm.
Hoa
tháng 5.
Bộ
phận dùng:
Vỏ cây - Cortex Terminaliae.
Nơi
sống và thu hái:
Cây của miền Ðông Dương, mọc hoang ở vùng núi các tỉnh Gia
Lai, Kontum, Ðắc Lắc, Tây Ninh, Sông Bé, Ðồng Nai, Kiên Giang, An
Giang, trên đất phù sa cổ hoặc bồi tụ, nhiều mùn. Khi dùng
vỏ, bóc thành từng mảnh dài 30-40cm, rộng 4-5cm, dày 8-12cm, đem phơi
hay sấy khô.
Thành
phần hoá học:
Vỏ Chiêu liêu nghệ cho 35% cao khô trong đó các acid cachontanic và
phlobaphen, có tới 2% tanin và 10% oxalat calcium.
Tính
vị, tác dụng:
Chiêu liêu nghệ có vị đắng, tính hàn, có độc; có tác dụng phá
huyết, hành huyết, thông kinh lạc, trục phong đờm.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Từ lâu, nhân dân Campuchia đã dùng nước
sắc vỏ cây này chữa đi ỉa lỏng và lỵ. Người ta thường dùng
liều 20-40g cao lỏng, hoặc 13g cao khô hay 50-100g cồn thuốc (1/5).
Khi cần dùng mới chế thuốc vì dạng xirô chế bằng cao nước
Chiêu liêu nghệ rất dễ lên men mốc. Có thể chế thành dạng viên
nén hay viên hoàn. Chiêu liêu nghệ có thể dùng chữa tất cả các
chứng vô danh thũng độc, ung thư ruột, viêm phổi có mủ, các
chứng thai tiền sản hậu của đàn bà, đàn ông đái đục, lậu
ké; còn dùng làm thuốc giục.
Ghi
chú: Ðàn bà có thai không nên dùng
Ðơn
thuốc:
Chữa bệnh tiêu chảy, đi tiêu lỏng, đau bụng, ăn không tiêu, sình
bụng, dùng Hậu phác (sao Gừng) 12g, vỏ Quýt (sao) 10g, đọt ổi
10g, Dứa gai 12g, Chiêu liêu đen hoặc vỏ Măng cụt 10g. Ðổ 500ml nước,
sắc còn 150ml nước. Uống ngày một thang (Kinh nghiệm ở An Giang).
|
|