|
Sấu
đỏ
Sấu đỏ,
Sấu chua, Sấu tía - Sandoricum koetjape (Burm. f.) Merr. (S.
indicum Cav.), thuộc họ Xoan - Meliaceae.
Mô tả:
Cây gỗ cao 20-30m, có các nhánh phủ lông mềm và ngắn. Lá kép 3 lá
chét, có lông nhung, dài 30-60cm, với lá chét dai, nguyên, có lông phún,
hai lá chét bên nhỏ hơn lá chét giữa, phiến thường hình trứng
hay ngọn giáo, dài 15-20cm, rộng 8-10cm. Hoa nhỏ, vàng xếp từng đôi
thành chùm nhiều xim nhỏ. Quả hạch có lông mềm, hình cầu, hơi
gồ lên, có mũi nhọn cứng ở đầu, đường kính 5-6cm; có vỏ
quả trong nạc, có hạch cứng với 4-6 ô. Hạt dạng quả hạnh nhân,
có vỏ nâu.
Hoa tháng 1;
quả tháng 6.
Bộ phận dùng:
Rễ, lá - Radix et Folium Folium Sandorici,
Nơi sống và thu hái:
Loài phân bố rộng từ Ấn Độ, Xri Lanca, Mianma, Lào, Campuchia,
Việt Nam đến quần đảo Lanca, Mianma, Philippin, Inđônêxia và Môluyc.
Ở nước ta, cây mọc trong rừng thường xanh dưới 1000m ở một
số tỉnh phía Nam.
Thành phần hoá
học:
Cây chứa một chất độc đắng và alcaloid.
Tính vị, tác
dụng:
Rễ thơm, lợi trung tiện, giúp tiêu hoá, kháng sinh và thu liễm.
Quả cũng có vị chua và có tác dụng thu liễm.
Công dụng, chỉ định
và phối hợp:
Quả có thịt trắng, mềm có vị chua và dịu được dùng nấu
canh chua; lá cũng được dùng nấu canh chua. Ở Ấn Độ người ta
dùng rễ trị ỉa chảy và lỵ; dùng lá sắc uống trị ỉa chảy
và lá giã ra đắp trị ghẻ ngứa.
Ở Malaixia
rễ được dùng làm thuốc bổ trương lực.
Ở Inđônêxia
rễ được dùng phối hợp với vỏ cây Carapa obovata, hết sức đắng
để trị bạch đới.
Ở Philippin
người ta dùng phần nạc của quả làm mứt
|
|