|
Ðậu
gạo
Ðậu gạo, Ðậu nho nhe,
Ðậu nâu, Ðâu Cao Bằng - Vigna umbellata (Thunb) Ohwi et Ohashi (Phaseolus
calcaratus Roxb.), thuộc họ Ðậu - Fabaceae.
Mô
tả:
Cây thảo mọc đứng, gần đứng cao 30-75cm, hoặc dây leo hàng năm,
có thân quấn, 2-3m; nhánh to, có lông cứng. Lá có 3 lá chét màu
lục vàng; lá kèm hình ngọn giáo; cuống lá dài 5-10cm; lá chét hình
trái xoan rộng hay trái xoan ngọn giáo, dài 5-10cm, rộng 2,5-6cm,
dạng màng, gần nhẵn, thường nguyên, có khi chia ba thuỳ. Chùm hoa
dạng bông ở nách lá, 8-20cm, mảnh, mang nhiều hoa ở ngọn. Hoa vàng.
Quả dài hình dải cong, mọc đứng, dài 6-8cm, rộng 0,5cm, nhẵn;
hạt 7-10, hình trụ, dài 8-12 mm, màu mận nâu.
Hoa quả tháng 5 đến tháng
8.
Bộ
phận dùng:
Hạt - Semen Vignae Umbellatae.
Nơi
sống và thu hái: Loài phân bố khá rộng từ Ấn Độ,
tới Philippin, qua Trung Quốc, Nhật Bản và các nước Ðông Dương.
Ở nước ta, Ðậu gạo
thường được trồng nhiều trên các nương ngô (miền núi Cao
Bằng), trên đất đồi núi thổ canh, trồng xen canh gối vụ với
ngô nương. Có khi cũng được trồng cho leo lên hàng rào quanh nhà,
từ vùng đồng bằng tới vùng cao 1500m. Cây mọc nhanh, tái sinh
khoẻ, có khả năng chịu khô hạn.
Thành
phần hoá học: Hạt đậu gạo khô chứa nước 13,3%,
protid 20,9%, lipid 0,9%, glucid 64,9%, xơ 4,8%, tro 4,2%, 100g cung cấp năng
lượng là 1373KJ. Ðậu gạo còn chứa nhiều Ca, Fe, P và các loại
vitamin của nhóm B như thiamin, niacin, riboflavin.
Tính
vị, tác dụng: Cũng như Ðậu đỏ.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Ðậu gạo là cây thức
ăn giàu protein cho người, cho gia súc, đồng thời là một cây phân
xanh phủ đất, tốt đối với các đồi núi. Cây, lá non và quả
non cũng được dùng làm rau ăn. Hạt Ðậu gạo có giá trị dinh dưỡng
cao, dùng làm nhân bánh, nấu chè, thổi xôi, hầm thịt, nấu
canh...
Ðể làm thuốc, người
ta cũng dùng nó như Ðậu đỏ.
Ở Ấn Độ, lá cùng
với bột gạo dùng làm thuốc đắp vào bụng để trị đau dạ dày.
|
|